Phật pháp: "Sự nghi ngờ là cần thiết"
Opinion "Hiện nay, trong một số tôn giáo, niềm tin một cách mù quáng vẫn được coi là phẩm chất cần có của người tín đồ. Thế nhưng giáo pháp Phật đã không đòi hỏi điều đó. Khi nhắc tới giáo pháp, Đức Phật chỉ nói: Hãy đến để mà khám phá sự thật"
Có lẽ nền giáo dục Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo của người phương Tây đã khiến nhiều người có khuynh hướng xem sự nghi ngờ là một gì điều đáng xấu hổ, đến mức coi nó như kẻ thù. Người ta cảm thấy rằng nếu họ nghi ngờ, điều đó có nghĩa là họ đang phủ nhận giáo lý, trong khi lẽ ra họ nên có một niềm tin không thắc mắc. Hiện nay, trong một số tôn giáo, niềm tin không truy vấn, tức là tin một cách mù quáng, vẫn được coi là phẩm chất cần có của người tín đồ. Thế nhưng giáo pháp Phật đà không đòi hỏi điều đó. Khi nhắc tới giáo pháp, Đức Phật chỉ nói, “hãy đến để mà thấy” hoặc “hãy đến để khám phá sự thật”; Ngài không hề nói “hãy đến để mà tin”. Một tâm thức rộng mở và biết đặt nghi vấn hoàn toàn không bị coi là trở ngại đối với những người tin tưởng vào Phật pháp. Tuy nhiên, một tâm thức cho rằng: “Điều này không nằm trong cái khung nhận thức của tôi, vì thế tôi không tin” thì lại là một tâm thức khép kín, và chính một thái độ như thế mới là điều bất lợi lớn cho những ai có khát vọng theo đuổi bất kỳ một con đường tâm linh nào. Ngược lại, một tâm hồn rộng mở, luôn đặt câu hỏi và không chấp nhận sự việc chỉ vì điều đó đã được nói ra, thì lại không gặp chút khó khăn nào.
Một bản kinh nổi tiếng có nói về một nhóm dân làng đến thăm Đức Phật. Họ thưa với Ngài, “Nhiều bậc thầy đã đi qua đây. Mỗi vị đều có một học thuyết riêng. Mỗi vị đều tuyên bố rằng triết lý và sự tu tập của vị ấy là chân lý, nhưng tất cả những vị ấy đều chống đối nhau. Nay chúng con thật sự hoang mang. Chúng con nên làm thế nào”. Phải chăng câu chuyện đó nghe rất hiện đại? Nhưng đó đã là chuyện của hai mươi lăm thế kỷ trước. Cũng cùng những vấn đề. Đức Phật đã trả lời, “Quý vị có quyền hoang mang. Đó là một tình thế gây hoang mang. Đừng nên tin vào bất kỳ điều gì chỉ vì điều đó đã được chuyển giao theo truyền thống, hoặc vì các bậc thầy của quý vị nói như thế, hoặc vì các bậc tôn trưởng của quý vị đã dạy như vậy cho quý vị, hoặc vì đã được viết ra trong những kinh văn nổi tiếng. Khi nào quý vị tự thấy biết và tự trải nghiệm điều đó là đúng, là chân thật, bấy giờ quý vị có thể chấp nhận nó”.
Lúc ấy, lời khuyên đó quả là một phát biểu mang tính chất cách mạng, vì hiển nhiên Đức Phật cũng nói như thế đối với chính giáo pháp của Ngài. Xuyên xuốt bao thời đại, người ta biết rằng giáo pháp của Đức Phật có ở đó để được khám phá và được trải nghiệm bởi từng cá nhân. Cho nên người ta không cần phải ngại ngần khi có sự nghi ngờ. Thật vậy, Stephen Batchelor, một tác giả viết nhiều tác phẩm về Phật giáo, đã cho xuất bản một quyển sách có tựa đề là Niềm tin cho sự nghi ngờ (The Faith to Doubt). Chúng ta đặt câu hỏi là đúng. Nhưng chúng ta cần đặt nghi vấn với một trái tim rộng mở và một tâm thức rộng mở, chứ đừng có quan điểm cho rằng điều gì phù hợp với những ý niệm mà ta đã nhận biếttrước mới là đúng, còn bất kỳ điều gì trái ngược với những ý niệm ấy thì đương nhiên là sai. Thái độ sau thì giống trường hợp ‘cái giường của Procustes’. Ta có một cái khuôn định sẵn thích hợp, và bát kỳ điều gì ta tình cờ gặp phải điều hoặc bị kéo dài ra hoặc bị cắt ngắn đi cho phù hợp với cái khuôn ấy. Điều đó chỉ làm méo mó mọi vật và cản trở việc học tập. Nếu tình cờ chúng ta gặp phải những điều nào đó mà chúng ta cảm thấy khó chấp nhận được ngay cả khi chúng ta đã điều tra tìm hiểu một cách thật cẩn thận, điều đó cũng không có nghĩa là toàn bộ một giáo pháp chứa đựng những điều đó cần được vứt bỏ. Ngay cả giờ đây, sau bao nhiêu năm học hỏi, tôi vẫn thấy trong giáo lý của người Tây Tạng có những điều mà tôi chưa hoàn toàn dám chắc. Tôi thường tìm đến vị Lạt- ma của mình và tham vấn ngài về những điều như thế, và ngài thường nó, “Điều đó cũng tốt. Hiển nhiên, cô chưa thực sự có một mối liên kết với học thuyết đặc biệt ấy. Điều đó chẳng phải là vấn đề. Chỉ cần gạt nó qua một bên. Đừng nói, “Ồ không, điều đó không đúng”. Mà hãy nói “Tại lúc này, tâm thức tôi chưa lắm bắt được điều đó”. Về sau, có thể cô đánh giá đúng điều đó, mà cũng có thể cô sẽ không nắm bắt được nó. Điều đó không quan trọng”.
Khi chúng ta gặp phải một ý niệm mà chúng ta thấy khó chấp nhận, đặc biệt, nếu đó là một điều có tính cách thiết yếu đối với giáo lý, thì điều đầu tiên mà chúng ta nên làm là hãy tìm hiểu kỹ vấn đề ấy với một tâm thức không định kiến. Ta nên đọc bất kỳ điều gì có thể đọc liên quan đến vấn đề đó, không chỉ từ quan điểm của giáo pháp nhà Phật, mà nếu có nhiều cách khác nhau để tiếp cận vấn đề ấy, chúng tacũng cần phải đọc cả những tài liệu ấy nữa. Chúng ta cần phải tự hỏi vấn đề đó nối kết như thế với những phần khác của giáo lý. Chúng ta phải đưa được khả năng nhận thức của chúng ta vào đó. Cùng lúc, chúng ta nên nhận biết rằng khả năng nhận thức của chúng ta vẫn chỉ là nhận thức thế tục. Chúng ta vẫn chưa có được một tâm thức rộng khắp. Chúng ta chỉ có một cái nhìn rất hạn hẹp. Cho nên dứt khoát là vẫn có vô số những điều mà nhận thức thế tục thông thường của chúng ta chẳng thể nào nếm trải một cách trực tiếp. Mà điều đó không có nghĩa những điều ta không đủ sức nhận thức là những gì không hiện hữu. Lại nữa, điều quan trọng là giữ được một tâm thức rộng mở. Nếu người khác có những kinh nghiệm sâu sắc hơn và tâm thức kháng đạt hơn cho biết họ có kinh nghiệm về một điều gì đó, ít nhất, ta nên có khả năng nói. Có thể điều đó đúng là như vậy’.Ta không nên lấy cái tâm hạn hẹp và vô minh của ta làm tiêu chuẩn. Mà chúng ta phải nhớ rằng tâm thức hạn hẹp và vô minh của ta hoàn toàn có thể được chuyển hóa.
Đó là tất cả những gì con đường hướng đến. Tâm thức của chúng ta ngày càng trở nên rộng mở hơn và khoáng đạt hơn khi chúng ta tiến bộ. Chúng ta bắt đầu nhìn thấy mọi sự vật một cách rõ ràng hơn, và kết quả là mọi sự mọi vật bắt đầu vào khuôn một cách chậm chạp. Chúng ta cần phải kiên nhẫn. Chúng ta không nên trông đợi có thể hiểu được những giải thích sâu sắc của một tâm thức minh triết trong lần đầu tiên chúng ta tình cờ được gặp. Tôi tin chắc rằng chúng ta đều biết đến một số tác phẩm nào đó nói về sự minh triết mà chúng ta có thể đọc đi đọc lại nhiều lần năm này qua năm khác; và mỗi lần đọc lại, ta vẫn có cảm tưởng như ta mới đọc chúng lần đầu. Đó là vì tâm thức chúng ta đang mở rộng, chúng tabắt đầu khám phá những tầng bậc ngày càng sâu hơn của ý nghĩa mà chúng ta không thể thấy được trong lần đọc trước đó. Con đường tâm linh chân thật thì cũng hệt như vậy. Nó có những tầng bậc của ý nghĩa, và chúng ta chỉ có thể hiểu những khái niệm của các tầng bậc tiếp cận được bởi trình độ tâm thức hiện tại của ta. Tôi nghĩ rằng mỗi người đều có những điểm vướng mắc khác nhau. Tôi biết có những điều mà một số người thấy là hết sức khó nắm bắt nhưng lại quá sức giản dị đối với tôi. Tôi đã tin rất nhiều điều trong giáo pháp trước khi tôi đến với Phật pháp. Ngược lại, có những điều hết sức khó khăn đối với tôi, thì những người khác lại thấy quá dễ để hiểu và chấp nhận. Tất cả chúng ta đều đến từ những nền giáo dục khác nhau, và như thế, mỗi người chúng ta đều có những vấn đề riêng của mình. Nhưng điều quan trọng là nhận biết những vấn đề đó không phải là chuyện lớn lao. Đó chẳng là vấn đề gì cả. Việc nghi ngờ và truy vấn của chúng ta thúc đẩy chúng ta đi tới và giữ cho chúng ta luôn cảnh giác về mặt tri thức.
Đã có những lúc mà toàn thể đời sống tâm linh của tôi được đặt dưới một dấu hỏi to lớn. Nhưng thay vì bỏ qua những câu hỏi ấy, tôi đã đưa từng vấn đề một ra để truy vấn và khảo sát cặn kẽ. Khi tôi đã vượt qua được, tôi nhận ra rằng đơn giản đó không phải là vấn đề. Chúng ta có thể hoàn toàn hạnh phúc với một dấu hỏi. Cuối cùng, nó chẳng là vấn đề gì cả, miễn là chúng ta đừng củng cố nó hoặc đặt toàn thểcuộc sống của ta vào cái cảm giác bị đe dọa bởi nó. Chúng ta cần phát triển sự tự tin vào những phẩm chất nội tại đó có thể mang lại hoa trái. Tất cả chúng ta đều có Phật tính. Chúng ta có tất cả những phẩm chất cần thiết cho việc đi theo con đường đạo. Nếu chúng ta không tin điều đó, sẽ rất khó để chúng ta dấn thân vì chúng ta không có nền tảng để từ đó đi tới. Điều đó hết sức giản dị. Phật pháp không dựa trên giáo điều.
Thế nhưng tại sao việc tin rằng chúng ta có Phật tính lại khó khăn như vậy đối với chúng ta? Căn bản là vì trạng thái tâm thức của chúng ta, vì chúng ta thiếu kiến thức về việc ta là ai và vai trò của chúng ta là gì trong cuộc sống này. Vì chúng ta không biết chúng ta là ai, chúng ta cảm thấy xa cách với những người khác. Đó chính là cái cảm giác về ‘ngã’, cảm giác ấy tạo nên cho tất cả chúng ta những sợ hãi, giận dữ, bám víu, ghen tức,và bất an. Nhưng Đức Phật bảo rằng sự việc không bị buộc phải như vậy. Bản chất vốn có của chúng ta là thanh tịnh. Tất cả những gì chúng ta phải làm là phát hiện lại rằng ta thực sự là ai, và rằng đạo có mục đích gì. Điều đó rất đơn giản. Điều đó không dựa trên tín ngưỡng, mà thực ra dựa trên những kinh nghiệm, và kinh nghiệm dẫn tới nhận thức. Vấn đề không phải là học những gì các vị Lạt-ma giảng, hoặc những gì mà truyền thống có nói đến, rồi tin rằng điều đó sẽ cứu rỗi chúng ta. Con đường đạo không hề cứu rỗi chúng ta. Tất nhiên, chúng ta cần phải biết Đức Phật đã nói những gì. Chúng ta cần biết các bậc thầy ngày xưa đã nói những gì, vì các ngài đã đi trước ta và đã để lại cho chúng ta những tấm bản đồ để chúng ta có thể lần theo. Điều đó cũng hơi giống như là đọc một tập du ký. Chúng ta có thể đọc một tập du ký và có cảm tưởng là chúng ta đã có mặt ở nơi mà tập du ký nói đến,, nhưng thật sự, chúng ta chưa bao giờ ở đó. Những điều đó chỉ là kinh nghiệm du hành của một ai khác. Vì khi ta đi tới đó, ta sẽ có những kinh nghiệm riêng của ta. Theo con đường đạo là để có những trải nghiệm về con đường ấy cho chính mình. Trải nghiệm ấy không dựa trên những gì mà người khác mô tả. Nó không dựa trên một niềm tin mù quáng. Tất nhiên, chúng ta cần một mức độ tin nào đó để mua một chiếc vé và bắt đầu cuộc hành trình của chính mình. Chúng ta tin xứ sở đó hiện hữu và đó là một nơi đáng mến. Nhưng vượt qua chuyện đó, điều quan trọng là lên đường. Và vì ta đi, ta có thể tự nhủ: “Vâng đấy đúng là con đường mà những người đi trước đã mô tả. Đúng thế. Con đường trông giống như vậy”.
Có nhiều thứ trên cuộc đời này nếu chỉ xem xét một vài khía cạnh đơn thuần thì khó để hiểu biết hết trọn vẹn. Tại sao một số người có thể đạt được rất nhiều thành công vượt bậc trong cuộc sống? Tại sao một số người có thể đạt được những thành quả phi thường… vượt xa những gì được mong đợi? Có phải đó là vì họ tài năng, nhạy bén và có năng lực hơn người? Có phải họ có nhiều điều kiện tốt hơn so với người khác? Sau khi xem xét và chiêm nghiệm kỹ chúng ta đều biết rằng, rõ ràng không phải vậy. Điểm khác biệt của những người thành công hơn so với người bình thường là họ có niềm tin mãnh liệt vào việc mình làm. Niềm tin này đã mang lại sức mạnh giúp họ “chiến đấu” kiên cường, và cuối cùng “chiến thắng” mọi gian lao thử thách.
Steve Jobs là một doanh nhân, nhà sáng chế người Mỹ, người đã thổi hồn vào những chiếc điện thoại iPhone, máy nghe nhạc iPod, máy tính bảng iPad và máy tính Macbook, đưa chúng trở thành những món hàng công nghệ được săn đón nhất thế giới. Ông có một câu nói mà khiến ai cũng rất tâm đắc: “Đôi khi cuộc đời sẽ ném gạch vào đầu bạn. Đừng đánh mất niềm tin”. Sức mạnh của niềm tin đã được rất nhiều người cũng như nhiều thế hệ khẳng định. Niềm tin sẽ đưa con người ta từ vực thẳm tối tăm tiến lên phía trước, có thể cứu họ từ gục ngã mà vươn lên đỉnh điểm của vinh quang. Niềm tin mang một sức mạnh siêu nhiên mà con người luôn cần tới nó. Trong Phật giáo, niềm tin vô cùng quan trọng. Vì “Tín là căn nguyên của đạo, là mẹ của công đức, nuôi lớn hết thảy thiện pháp, đoạn trừ lưới nghi, đưa vượt qua dòng nước ái dục, khai thị con đường tối thượng dẫn đến Niết-bàn.”[1] Niềm tin có một sức mạnh tiềm tàng vô tận, thôi thúc con người vươn tới mục đích cao xa để thực hiện hoài bão cao đẹp của mình. Tín là chi đầu tiên trong Ngũ căn (pañcindriya) và Ngũ lực (pañcabala). Tín căn là gốc của niềm tin. Tức niềm tin được xác lập một cách kiên định. Tín lực là sức mạnh của niềm tin. Khi niềm tin được xác lập thì có sức mạnh vượt trội. Sức mạnh của niềm tin có thể công phá được tất cả mọi thành trì chướng duyên, phiền não. Và khi mà tín căn được tu tập, làm cho sung mãn thì sẽ biến thành tín lực; tức là tạo nên sức mạnh, hỗ trợ hữu hiệu cho hành giả thực hành thiền định và thiền tuệ.
Trong Ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) của Nho giáo, tín có một vai trò quan trọng. Đây là lòng tin tưởng giữa người và người, là giữ trọn lời hứa để tạo lòng tin với nhau; không được bội ước, thất tín. Người mà không có chữ tín sẽ đánh mất nhân phẩm, tư cách của đạo làm người. Khổng Nho nói: “Nhân vô tín, bất lập”; có nghĩa là người không giữ chữ tín thì không đặt để vào đâu được cả; ý nói là không thể đứng được trong thế gian, không thể làm người được nữa. Tín trong ngũ thường, như vậy, là một trong năm yếu tố, điều kiện để hoàn thiện nhân văn, nhân bản theo quan niệm chung của nền minh triết Đông phương. Người con Phật luôn thiết lập niềm tin trên nền tảng của Tứ bất hoại tín hay còn gọi là Tứ chứng tín. Ấy là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin vào Thánh giới. Đó là bốn niềm tin trong sáng, thuần tịnh và không bị hủy hoại đối với người đệ tử Phật trong bất cứ trường hợp nào. Với bốn niềm tin này, người đệ tử Phật có thể đi vào dòng dõi của Bậc Thánh, sống an vui trong từng giây phút hiện tại, do sự thấy pháp và chứng nghiệm pháp đem lại. Tuy nhiên, bên cạnh niềm tin cần phải có trí tuệ. Nếu chỉ tin mà không có trí tuệ soi xét thì đó là niềm tin mù quáng. Do vậy, cần phải có đủ niềm tin và sự hiểu biết (tín và giải) để từ đó chúng ta đi trên lộ trình tu tập luôn được tự tại và ít có sự chướng ngại. Thành ra, tín và giải luôn song hành, hỗ trợ nhau để đi đến sự thành tựu hạnh và chứng. Đây là nấc thang đầu tiên để hướng đến Chánh đạo giải thoát. Nếu không thì chúng ta sẽ rất mù mờ, dẫn đến sai đường lạc lối. Do vậy, đức Phật phân định rõ ràng qua bốn hạng căn cơ như sau: 1. Có tín mà không có giải đó là hạng người độn căn mà lại chánh kiến. 2. Có giải mà không có tín là hạng lợi căn mà lại tà kiến. 3. Vừa có tín mà vừa có giải là hạng người vừa lợi căn mà vừa chánh kiến. 4. Không tín không giải đó là hạng vừa độn căn vừa tà kiến.[2]
Niềm tin và trí tuệ luôn đi đôi với nhau, hỗ trợ nhau trên con đường tu tập. Do đó, Ngài Long Thọ khẳng định: “Niềm tin là lối vào biển Thánh Pháp của đức Phật, và trí tuệ là con thuyền mà người ta dùng nó để vượt qua biển ấy”. Sức mạnh của niềm tin sẽ thúc dục trí tuệ đi vào khám phá diệu nghĩa và nếm trãi hương vị của Phật pháp. Như vậy, niềm tin là căn bản để phát sanh thiện pháp, và niềm tin là chánh nhân để hành giả có thể nhập vào biển cả Phật pháp. Cho nên, đối với người tu học không thể không có niềm tin. Mất niềm tin là mất phương hướng tu học và chắc chắn là sẽ thoái đọa. Khi đã kiên định trên tứ bất hoại tín, tức là tin Phật-bậc giác ngộ vẹn toàn; tin Pháp-đạo thoát ly tham dục, đưa đến giải thoát; tin Tăng-đoàn thể xuất gia tu hành cao cả, thay mặt đức Phật truyền trao chánh pháp; tin vào thánh giới-nguyên tắc phòng hộ đưa đến biệt giải thoát, và xứ xứ giải thoát; còn có một yếu tố hết sức quan trọng, đó là tin vào chính mình. Tin vào chính mình là tin vào khả năng, năng lực sức mạnh tiềm tàng trong con người chính mình. Ai cũng có khả năng, năng lực, và sức mạnh tự nội. Nhưng do thiếu niềm tin nên có khi chúng ta để thui chột các năng lực và sức mạnh tự nội đó. “Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.” (Helen Keller)
Thật vậy, niềm tin có sức mạnh vô cùng kì diệu. Nó là một cảm xúc trong ý chí của con người. Nó đi liền với sự hi vọng bùng cháy trong tâm hồn. Niềm tin được ví như một động lực để giúp con người vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Và để vượt qua chúng thì niềm tin vào bản thân luôn là điều không thể thiếu. Niềm tin vào bản thân là sự ý thức về năng lực, phẩm chất, giá trị của bản thân, đánh giá được vị trí vai trò của mình trong cuộc sống. Niềm tin vào bản thân thực sự rất quan trọng. Bởi nó không đơn thuần là một cảm xúc thông thường. Nó còn là một động lực lớn của con người. Chắc hẳn chúng ta đã từng nghe câu: ‘mất niềm tin là mất tất cả’. Tại sao lại như vậy? Bởi thứ nhất bạn sẽ là người hiểu rõ bạn nhất. Bạn sẽ biết được toàn bộ suy nghĩ, thế mạnh, điểm yếu của chính bản thân bạn. Bạn sẽ là người duy nhất biết rõ bạn cần gì, ước mơ những gì, hi vọng điều gì cho cuộc sống. Nếu bạn mất niềm tin, bạn sẽ chẳng còn quan tâm đến những điều này nữa. Bạn sẽ chẳng còn ý chí, nghị lực để bước tiếp trên con đường mình đã chọn. Mất niềm tin, bạn sẽ chẳng còn biết mục đích sống của mình là gì, vì thế mà trở thành buông thả bất cần, lúc đó hậu quả sẽ thật khó lường. Không có niềm tin, sống buông thả, bất cứ lúc nào bạn cũng có thể sa ngã rồi đánh mất bản thân mình. Trên con đường tu tập, niềm tin sẽ định hướng, vạch lối đưa đường cho mình bước tiếp một cách vững chãi. Đức Phật dạy, mỗi người hãy là một hòn đảo cho chính mình, đức Như Lai chỉ là bậc Đạo sư. “Khả năng tu tập của mình là nhân tố quyết định thành công. Đừng hy vọng trong chờ ở tha nhân nào khác. Phải phát triển nghị lực sẵn có của chính mình, và sự thật mỗi người đều có khả năng nghị lực đó”. Theo tinh thần của kinh Pháp hoa, mỗi người đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật, là một vị Phật tương lai. Sự xác tính này đã mở ra cơ hội và hy vọng lớn cho tất cả mọi người. Họ tin rằng mình có khả năng làm Phật, nên họ luôn hành động, suy nghĩa và nói năng đúng đắn, chánh đáng. Nên tất cả mọi việc làm đều là Phật sự, đều mang sự lợi ích cho tất cả mọi người.
Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, niềm tin chân chính phải được xác lập từ nơi tâm thức của chính mình, vì chỉ tâm ấy mới có khả năng làm Phật, chứ không phải tìm vào một tâm nào khác. “Phát khởi lòng tin vào chính cái Tâm bình thường ở ngay nơi mình. Từ cái tâm bình thường đó, chúng ta sẽ đi đến đất Phật, như Chư Bồ-tát đang đi và sẽ đến như Chư Phật đã đến”. Bộ luận này cũng khẳng định rằng: Tín căn của Đại thừa là chỉ cho Phật tánh đầy đủ trong mỗi chúng sanh. Phật tánh là nhân thì Phật quả mới là Niết bàn thực sự. Niềm tin tương lai mình sẽ làm Phật đã thực sự thổi một luồng sinh khí mới mẻ vào tâm thức của tất cả mọi người. Vì rằng mai này mình là người hoàn thiện về phước đức và trí tuệ (phước trí nhị nghiêm), nên trong mọi lúc, mọi nơi, sẽ cố nỗ lực để kiện toàn về nhân cách đạo đức, xa lìa ác pháp, viễn ly các tư tưởng chấp thủ cố hữu để đi đến chân trời giải thoát đích thực. Chân trời ấy là chân trời của vô tham, vô sân, vô si, an lạc tự tại, vô ngã, niết bàn. Chính niềm tin này là nhân tố căn bản để thiết lập bất thối chuyển tâm, dù có trải qua vô lượng kiếp thì tâm này cũng không bao giờ thối đọa.
Niềm tin làm Phật ở tương lai không những giúp mọi người ý thức đến giá trị bản chất của sự sống, sự lợi lạc của cộng đồng; trái lại, nhờ niềm tin của ta đã được kiên định, nên nó có hiệu năng tiêu diệt và chuyển hóa những ác nghiệp của ta từ bao đời kiếp. Nhờ có niềm tin, nên ta tinh tấn nỗ lực hành trì theo pháp Phật một cách chí thành, không nghi ngờ, do dự, nên nghiệp nặng chuyển thành nhẹ, quả báo nặng chuyển thành quả báo không đáng kể, không những vậy mà còn có cơ hội hóa giải tam độc tham sân si nơi tự tâm của mình. Do vậy, với niềm tin kiên định, bất hoại, thì không những chuyển hóa được những nghiệp chủng của tâm thức bằng công năng của giới - định - tuệ; chuyển từ nhiễm sang tịnh, từ những nhận thức sai lầm về một bản ngã cố hữu, về con người, về chúng sinh, mà còn chuyển hóa được tất cả dư báo xấu trong quá khứ cũng như hiện tại đều theo hướng Vô thượng Bồ đề. “Người ta không thể giữ giới nếu không có niềm tin. Do giữ giới, người ta sẽ nhập vào trạng thái tâm thức của thiền định và cũng có thể đạt đến trí tuệ”. Bằng đức tin này, ta sẽ tinh cần thực hành lục độ một cách vô trú và vô tướng, chuyển hóa những vọng tưởng sai lầm đối với tự thân, đối với con người, đối với chúng sanh, đối với thọ mạng thành chánh trí và có khả năng chuyển hóa Khổ đế thành Diệt đế, hay sinh tử thành Niết-bàn, chứng nhập vô vi pháp thân, có khả năng sinh khởi tuệ giác, biến tri một cách như thực đối với mọi sự hiện hữu và không hiện hữu, rồi hưng khởi lòng từ vô biên, sử dụng vô số phương tiện thiện xảo, dạo khắp mười phương, rưới nước cam lồ, dập tắt mọi ưu não và khơi mở tuệ giác cho hết thảy muôn loài. Thành ra, niềm tin có một sức mạnh kỳ diệu, có một năng lực mầu nhiệm. Năng lực mầu nhiệm này có thể chuyển hóa, làm thay đổi cuộc đời của bạn. Sức mạnh của niềm tin luôn thúc dục ta tiến tới, vượt qua mọi gian lao trắc trở. Sức mạnh của niềm tin sẽ là sợi chỉ hồng gắn kết con người lại với nhau trong sự thương yêu, tin tưởng. Niềm tin là chất liệu mầu nhiệm để đưa đến diệu quả thù thắng. Nhờ đó, cuộc đời sẽ trở nên ý vị hơn, với nhiều niềm tin hy vọng tràn trề. Để con người vươn tới xây dựng một tương lai tươi sáng, đẹp đẽ hơn.
Chú thích của người dịch:
1.Theo nội dung kinh Kalama, chương Ba Pháp, Tăng Chi Bộ.
2.Theo thần thoại Hy lạp, Prosecutes có một chiếc giường sắt, dành cho khách đến ngủ qua đêm. Người nào thấp quá, ngắn hơn chiếc giường, ông ta kéo cho họ dài ra; người nào cao quá, dài hơn chiếc giường, ông ta cắt bớt chân của họ, cho vừa khít với chiếc giường. ’Chiếc giường của Prosecutes’ được người phương Tây dùng để chỉ một tiêu chuẩn tùy tiện độc đoán đòi hỏi sự tuân phục tuyệt đối.
Nguồn: FB Nguyen An. Hình ảnh Internet
________________________________________________
Art Design Center
vietnamcolor.vn - fashionnet.vn
Contact: 0903788646 - 0903975081
Email: Huongcolor.gstudio@gmail.com \
Office: Vietthi Company Limited (Vietnam Vision)
30, C18 Street, ward 12, Tan Binh District – Hochiminh City
Pro Creative Course I Khóa học Art, Design, Creativity, Writing, Storytelling: 6 buổi/tháng (cho mỗi môn học): Học viết, thiết kế, vẽ và tìm hiểu lịch sử nghệ thuật, phương pháp tư duy, xây dựng giá trị cốt lõi của sáng tạo. Những bài giảng tạo ra những gợn sóng xung động trong tâm trí và trái tim, giúp bạn tìm thấy những nguyên tắc dẫn lối tài năng của mình đến với cái đẹp và sự sáng tạo. Khoá học là một cuốn sách hướng dẫn hành trình trải nghiệm. Đây là lời mời hít thở bầu không khí nghệ thuật tại G Studio để bạn cảm nhận cái đẹp từ cuộc sống, thiên nhiên và tâm hồn.
HuongColor I người sáng lập G Studio là nhà thiết kế, họa sĩ và giám đốc sáng tạo, biên tập tạp chí thời trang. 1996 tốt nghiệp ngành Thiết kế tại Hanoi University of Industrial Fine Art (UIFA), sau đó Huongcolor trở thành giám đốc sáng tạo của tạp chí Đẹp. 2007 cô sáng lập công ty truyền thông, quảng cáo Vietnam Vision (Vietthi Company Limited). Năm 2010, cô được bổ nhiệm giám đốc nội dung của Elle Magazine. 2016 sáng lập Vietnam Designer Fashion Week (VDFW). 2021 thành lập G_studio tư vấn chiến lược và định hướng sáng tạo, hoạt động trong lĩnh vực truyền thông, thiết kế, nghệ thuật.