288
15
Tháng 07 2:54 pm
Art that Changed the World I Baroque tại Flanders và Tây Ban Nha
Art_Painting Vùng Flanders vào thế kỷ 17 là thuộc địa của Tây Ban Nha, và nghệ thuật giữa hai khu vực này đã có mối quan hệ mật thiết với nhau, Gần như tất cả nghệ sĩ tại Flanders đều được ảnh hưởng bởi phong cách Baroque màu sắc của Peter Paul Rubens, trong khi tại Tây Ban Nha xuất hiện nhiều nghệ sĩ phong cách đặc trưng, như Diego Veláquez, Francisco de Zurbarán...
Nghệ thuật không ngừng phát triển. Từ khi những người nghệ sĩ đầu tiên vẽ lên tường để trang trí hang động của mình thời tiền sử, các họa sĩ đã và luôn nghiên cứu để tìm ra những phương thức mới khắc họa thế giới xung quanh mình. Đôi khi lại có những cá thể thiên tài - như Giotto, Leonardo, Picasso - mở ra một chương mới trong biên niên sử nghệ thuật, hay một nhóm họa sĩ chung tư tưởng cùng nhau mở đầu một trường phái, một phong trào nghệ thuật.
Art that Changed the World là tổng hợp sự phát triển của những phong trào nghệ thuật nổi bật nhất. Chúng đều bắt đầu với một ‘điểm ngoặt’ - một bức tranh định hình hay đánh dấu những đặc điểm chung của phong trào - và được ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau: một loại chất liệu vẽ mới, những sự kiện lịch sử, hay một cá thể thách thức những suy nghĩ thông thường. Cách mạng Pháp đã truyền cảm hứng cho các họa sĩ trường phái Lãng mạn và Tân cổ điển; sự ra đời của in ấn mở đầu cho loạt tác phẩm thời Phục Hưng; và sự phát triển của ngành đường sắt cũng gián tiếp thay đổi hướng đi của trường phái Ấn tượng.
Tốc độ thay đổi của nghệ thuật cũng khác biệt theo thời gian. Các tác phẩm nghệ thuật Ai Cập cổ đại gần như tương tự nhau xuyên suốt hàng thế kỉ, trong khi vào những năm trước khi xảy ra Thế chiến thứ nhất, vô vàn tác phẩm nghệ thuật độc đáo ra đời. Tập sách tranh này sẽ đưa người xem qua một hành trình phát triển của nghệ thuật từ những bức tranh vẽ hang động đầu tiên cho đến tận ngày hôm nay.
PHẦN 3B: BAROQUE TẠI FLANDERS VÀ TÂY BAN NHA (1600 - 1700)
Tây Ban Nha và Flanders (khu vực nay thuộc Bỉ) tuy cách biệt về mặt địa lý, nhưng chúng có mối liên hệ sâu sắc với nhau vào thế kỷ 17, từ khi Flanders trở thành thuộc địa của đế chế Tây Ban Nha. Sự phát triển về nghệ thuật của hai quốc gia cũng gắn bó chặt chẽ với nhau, một phần là nhờ những chuyến ghé thăm Tây Ban Nha của bậc thầy Peter Paul Rubens. Trong chuyến đi thứ hai, ông đã kết bạn với họa sĩ vĩ đại người Tây Ban Nha, Diego Velázquez. Rubens thể hiện phong cách Baroque một cách năng động và màu sắc nhất. Sự tỉ mỉ, chuyên nghiệp và linh hoạt đáng nể của ông ảnh hưởng đến toàn bộ thế hệ nghệ sĩ đương thời, trong đó có Anthony van Dyck, người từng làm trợ lý chính cho ông. Ở Tây Ban Nha, nhiều xu hướng đa dạng nổi lên, từ phong cách bề thế, bi kịch của Francisco de Zurbarán cho đến sự nhẹ nhàng, trang trọng của Bartolomé Esteban Murillo - cả hai đều thể hiện sự sùng đạo của quê hương mình.
The Horrors of War, Sir Peter Paul Rubens, 1638 Palazzo Pitti, Florence, Ý
Bức tranh này khắc họa giai đoạn chiến tranh tàn khốc mà Ruben đã sống, với những cảm xúc mạnh mẽ và mang phong cách Baroque rõ rệt. Ông giải thích rằng “người phụ nữ đau buồn mặc đồ đen” chính là “những người châu Âu bất hạnh, đã phải chịu đựng sự cướp bóc, phẫn nộ và đau khổ trong nhiều năm”
BỐI CẢNH
Vào thế kỷ 17, bản đồ châu Âu rất khác so với ngày nay. Tây Ban Nha đang dần sa sút quyền lực sau khi đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 16, nhưng nó vẫn kiểm soát một khu vực rộng lớn, trong đó có Flanders (đôi khi được gọi là “Hà Lan thuộc Tây Ban Nha”) và một phần của Ý. Sự cai trị khắc nghiệt của Tây Ban Nha đã dẫn đến sự bất mãn và các cuộc nổi dậy. Hàng xóm phía Bắc của Flanders, Cộng hòa Hà Lan, giành được độc lập từ Tây Ban Nha vào năm 1609 sau những cuộc giao tranh đẫm máu, nhưng Flanders vẫn là thuộc địa cho đến năm 1713, khi nó trở thành một phần của đế quốc Áo.
The Archduke Leopold William in His Picture Gallery, David Teniers the Younger, 1652, Prado, Madrid, Tây Ban Nha
Leopold William nắm quyền Hà Lan thuộc Pháp dưới danh nghĩa vua Philip IV của Tây Ban Nha từ năm 1646 đến năm 1656. Bộ sưu tập hội họa của ông có thể coi là một trong những bộ sưu tập tiêu biểu nhất của thời đại này.
Cũng như Tây Ban Nha, khu vực Flanders chủ yếu theo đạo Cơ đốc giáo. Thể loại tôn giáo chiếm vị trí hàng đầu trong nghệ thuật của cả hai nước, mặc dù các chủ đề khác cũng đang dần được săn đón hơn. Rubens rất may mắn khi ông bắt đầu sự nghiệp tại Antwerp trong thời kỳ đình chiến giữa hai nước Flanders và Cộng hòa Hà Lan, dẫn đến việc xây dựng và trang trí lại các nhà thờ đã bị hư hại trong chiến tranh.
Antwerp là một trong hai trung tâm nghệ thuật tại Flanders ( trung tâm còn lại là Brussels, cũng là nơi đặt triều đình chính quyền Tây Ban Nha). Mặc dù Antwerp đã gánh chịu hậu quả chiến tranh nặng nề từ thời cuối thế kỷ 16, thành phố này sớm khôi phục và trong thời kỳ Ruben làm việc, nó trở thành một trung tâm quan trọng về in ấn và nghệ thuật. Tại Tây Ban Nha, thủ đô Madrid - nơi Velázquez dành phần lớn sự nghiệp của mình - nổi bật về văn hóa, nhưng cũng không quá vượt trội. Một vài thành phố khác tại Tây Ban Nha cũng là những trung tâm hội họa quan trọng, trong đó đáng chú ý có Seville, là cảng chính cho các hoạt động thương mại sinh lợi với các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ.
Self-Portrait, Sir Peter Paul Rubens, 1623
Ruben dành tám tháng tại Tây Ban Nha vào những năm 1603 - 04 để thực hiện sứ mệnh ngoại giao được giao phó bởi Công tước Mantua, Philip II. Lúc bấy giờ, hội họa tại Flanders cũng như tại Tây Ban Nha vẫn đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự tinh tế, trang nhã, đôi khi lý tưởng đến mức giả tạo của trường phái Kiểu cách. Năm 1608, Ruben trở về Flanders từ Ý và mang đến phong cách Baroque mạnh mẽ và hiện đại hơn. Các tác phẩm của ông cũng ảnh hưởng đến nghệ thuật Tây Ban Nha, chủ yếu là nhờ chuyến ghé thăm thứ hai vào năm 1628 - 29. Phong cách Baroque Ý cũng tiếp cận giới nghệ sĩ Tây Ban Nha thông qua những chuyến hàng xuất khẩu tác phẩm của Caravaggio và các đồng môn.
ĐIỂM NGOẶT
The Duke of Lerma on Horseback
Sir Peter Paul Rubens, 1603, Prado, Madrid, Tây Ban Nha
Khi bức chân dung này được vẽ, Francisco Gomez de Sandoval, Công tước Đệ Nhất Lerma (1553 - 1625), là người đàn ông quyền lực nhất tại Tây Ban Nha. Lãnh chúa trẻ tuổi, Philip III, là một con người yếu đuối, sống buông thả, để mặc chính quyền cho những thân cận quản lý. Rubens rất có thể đã vẽ bức chân dung tại Valladolid, nơi lúc bấy giờ đang là thủ đô của Tây Ban Nha. Lerma được khắc họa ở kích thước thật, với một vẻ quyền lực ấn tượng. Ánh mắt ông sắc bén, chăm chú, nhưng vẫn có một vài chi tiết thể hiện sự u sầu, lo lắng liên quan đến những vấn đề ông đối diện lúc bấy giờ: vợ ông vừa qua đời và ông đang phải chịu áp lực từ những đối thủ chính trị. Rubens không chỉ là họa sĩ, ông là một tay cưỡi ngựa kiệt xuất và rõ ràng ông đã thể hiện kiến thức và tình cảm sâu sắc với loài vật này trong tranh: bờm ngựa mượt mà, đôi tay nhỏng lên cảnh giác, và ánh mắt gần như chứa đựng một tâm hồn bên trong. Với tác phẩm năng động, mới lạ này, Ruben đã định hướng cho thể loại tranh chân dung người cưỡi ngựa xuyên suốt thế kỷ 17.
NHỮNG ẢNH HƯỞNG NGHỆ THUẬT
Ruben chỉ mới 26 tuổi khi ông thực hiện kiệt tác bên trên, nhưng ông đã nghiên cứu những di sản nghệ thuật Ý sâu sắc hơn bất kỳ nghệ sĩ nào đương thời có thể tìm hiểu trong cả quãng đời của mình. Ông được Công tước Mantua, một người yêu nghệ thuật, tín nhiệm và tạo cơ hội để ông tự do du lịch quốc tế. Vì vậy, ông được ảnh hưởng bởi đa dạng nền văn hóa khác nhau.
Monument of Cosimo I, Giambologna, 1594, Florence, Ý
Ruben lần đầu ghé thăm Florence vào năm 1600, không lâu sau khi đặt chân đến nước Ý, và ông cũng từng ghé qua thành phố nay trên hành trình đến Tây Ban Nha vào năm 1603. Rất có thể rằng Ruben đã được chứng kiến bức tượng người cưỡi ngựa của Giambologna khắc họa Công tước Cosimo I de Medici đặt ngay tại quảng trường thành phố Florence.
Saint Martin and the Beggar, El Greco, 1597 - 1599, Bảo tàng Quốc gia, Washington DC
El Greco đã vẽ bức họa nổi tiếng này cho một nhà nguyện tại Toledo. Rubens đã không thể xem bản gốc, nhưng bức tranh này nhanh chóng trở nên nổi tiếng, và nhiều bản sao chép xuất hiện trên thị trường.
Tại Madrid, Rubens đã thấy bức vẽ chân dung nổi tiếng của Titian khắc họa Hoàng đế La Mã Thần thánh Charles V, và cũng đã vẽ một bản sao chép phần đầu. Ông chắc hẳn cũng đã chứng kiến nhiều bản chân dung khác của Charles.
LỊCH SỬ GIAI ĐOẠN QUA CÁC TÁC PHẨM
Vào đầu thế kỷ 17, một số họa sĩ tại Flanders và Tây Ban Nha được ảnh hưởng bởi các tác phẩm tối tăm của Caravaggio, trong đó Zurbarán đã biến những tông màu tối thành đặc trưng của mình cho đến những năm 1640. Lúc bấy giờ, Rubens gần như thống trị nền nghệ thuật Flanders, ít có nghệ sĩ nào không được ảnh hưởng bởi ông - trong đó có van Dyck và Jordaens, cả hai đều đã từng làm việc cho Rubens khi mới bắt đầu sự nghiệp. Ngược lại, ở Tây Ban Nha, các nghệ sĩ theo chủ nghĩa cá nhân như Murillo và Valdés Leal đã cùng nhau khẳng định tên tuổi của mình tại Seville vào cuối thế kỷ này.
Still Life With Quince, Cabbage, Melon, and Cucumber, Juan Sánchez Cotán, 1600, San Diego Museum of Art, CA
1600: Tĩnh vật là một chủ đề nhỏ nhưng đặc trưng của nghệ thuật Tây Ban Nha. Sánchez Cotán chuyên vẽ tranh tôn giáo, nhưng các tranh vẽ tĩnh vật của ông vẫn thể hiện cảm xúc mạnh mẽ với một sự huyền bí nhất định, mặc dù chủ thể chỉ là những đồ vật giản dị trong đời sống thường nhật.
1603 - 06: Nhà điêu khắc vĩ đại, Juan Martínez Montañés, được biết đến là “thần gỗ” bởi kỹ năng vượt trội của ông trong lĩnh vực chạm khắc. Năm 1603, ông bắt đầu thực hiện tác phẩm Christ of Clemency nổi tiếng cho Nhà nguyện Seville. Dự án được hoàn thành vào năm 1606.
Landscape With Shepherds and Pilgrims, Paul Bril, 1605, Pinacoteca Ambrosiana, Milan, Ý
1605: Bril là một họa sĩ người Flanders nhưng dành phần lớn sự nghiệp tại Rome. Những bức tranh phong cảnh quyến rũ, trau chuốt, phi thực tế của ông rất nổi tiếng với những nhà sưu tập người Ý.
The Adoration of the Shepherds, Juan Bautista Mayno, 1612–13, Prado, Madrid, Tây Ban Nha
1612 - 13: Mayno dành một vài năm ở Ý và được ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Caravaggio, có thể thấy qua cách sử dụng ánh sáng, bóng tối tương phản mạnh mẽ trong tranh và những chi tiết chân thật.
Peace and Plenty Binding the Arrows of War, Abraham Janssen, 1614, Wolverhampton Art Gallery, Vương quốc Anh
1614: Janssen là một trong những nghệ sĩ hàng đầu cùng thời với Ruben tại Antwerp, với phong cách vẽ quyết đoán, trang nghiêm, thể hiện kiến thức bản thân đối với nghệ thuật Ý (ông dành một vài năm sống ở Ý trong giai đoạn chuyển giao sang thế kỷ 17). Bức vẽ phúng dụ này được bảo trợ bởi Guild of Old Crossbowmen - nhóm dân binh tình nguyện lớn nhất tại Antwerp.
Vase of Flowers, Ambrosius Bosschaert, 1620, Mauritshuis, The Hague, Hà Lan
1620: Là một tài năng kiệt xuất trong gia đình có truyền thống hội họa, Bosschaert dẫn đầu trong lĩnh vực vẽ hoa, đây cũng là chuyên môn của ông. Ông sinh ra tại Antwerp nhưng làm việc chủ yếu tại Cộng hòa Hà Lan.
St. Serapion, Francisco de Zurbarán, 1628, Wadsworth Atheneum, Hartford, CT
1628: Một trong những họa sĩ tôn giáo quyền lực nhất thời kỳ này, Zurbarán nổi tiếng với những bức họa khắc khổ, kịch tính về những vị thánh như bức tranh trên. Serapion là một linh mục sống vào thế kỷ thứ 12, bị giết bởi hải tặc.
Francisco de Zurbarán (1598 - 1664) dành phần lớn sự nghiệp tại Seville, nơi ông là họa sĩ hàng đầu trong nhiều năm, mặc dù ông làm việc cho Vua Philip IV tại Madrid giai đoạn 1634 - 35 rồi định cư tại đó vào năm 1658. Các tác phẩm của ông được sản xuất chủ yếu dành cho các thể chế tôn giáo như nhà thờ, tu viện.. Đôi khi ông vẽ một loạt tranh minh họa các vị Thánh. Trong những năm 1640, phần lớn các tác phẩm của ông được xuất khẩu đến các vùng thuộc địa của Tây Ban Nha tại châu Mỹ. Tuy nhiên, những năm 1650, ông gặp nhiều khó khăn về tài chính do số tiền chi trả cho tranh ông bị thất lạc do chiến tranh đường thủy.
Charles I Out Hunting, Sir Anthony van Dyck, 1635, Louvre, Paris, Pháp
1635: Đây là một trong những kiệt tác nổi tiếng nhất của van Dyck, thể hiện sự trang nhã tinh xảo và sự trau chuốt đặc trưng của người họa sĩ. Charles là một nhân vật danh giá nhưng có chiều cao khiêm tốn; van Dyck đã sử dụng góc nhìn từ dưới lên để che đi khuyết điểm này.
Van Dyck (1599 - 1641) bộc lộ tài năng hội họa từ bé và trở thành phụ tá chính của Rubens khi ông ở tuổi vị thành niên. Cũng như Rubens, ông có một sự nghiệp quốc tế huy hoàng, dành 6 năm làm việc ở Ý, và phần lớn thời gian còn lại làm họa sĩ hoàng gia cho vua Charles I, người đã phong tước hiệp sĩ cho ông. Ông từng vẽ những bức tranh tôn giáo và thần thoại, nhưng chuyên môn của ông là vẽ chân dung - có thể coi ông là một trong những người vẽ chân dung vĩ đại nhất mọi thời đại. Các tác phẩm của ông là nguồn cảm hứng trường tồn cho các nghệ sĩ chân dung hậu bối, đặc biệt tại Anh.
Autumn Landscape With a View of Het Steen in the Early Morning, Sir Peter Paul Rubens, 1636, Bảo tàng Quốc gia, London, Vương quốc Anh
1636: Năm 1635, Rubens mua một căn nhà đồng quê, Château de Steen. Nó đã truyền cảm hứng cho ông thực hiện những bức tranh phong cảnh tuyệt hảo, nơi mà ông đã thể hiện niềm vui sướng của mình trước vẻ đẹp phong phú của thiên nhiên.
The King Drinks, Jacob Jordaens, 1640, Musées Royaux des Beaux-Arts, Brussels, Bỉ
1640: Sau khi Rubens qua đời vào năm 1640, Jordaen trở thành họa sĩ hàng đầu tại Flanders. Phong cách của ông được ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Rubens, nhưng chân thật hơn. Bức vẽ này minh họa một lễ hội nổi tiếng của người Flanders “Twelfth Night” khi người tham gia trở thành “vua của màn đêm”
The Clubfooted Boy, Jusepe de Ribera, 1642, Louvre, Paris, Pháp
1642: Bức chân dung vẽ cậu nhóc ăn xin người Naples là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Ribera. Nó được đặt vẽ bởi một nhà kinh doanh nghệ thuật.
The Temptation of St. Jerome, Juan de Valdés Leal, 1657, Museo de Bellas Artes, Seville, Tây Ban Nha
1657: Chuyên môn của Valdés Leal là tranh tôn giáo nhưng phong cách sáng tạo của ông rất độc đáo - đầy năng lượng, đan xen với biểu cảm thấp thỏm và các yếu tố rùng rợn. “Sự cám dỗ” của Thánh Jerome trong tranh là những ảo tưởng về tình dục mà ông phải chịu đựng.
The Painter's Studio, Jacob van Oost, 1666, Groeningemuseum, Bruges, Bỉ
1666: Van Oost làm việc chủ yếu tại Bruges, nơi ông là họa sĩ hàng đầu lúc bấy giờ. Ông chủ yếu vẽ tranh tôn giáo và chân dung, nhưng đôi khi cũng thử nghiệm ở các lĩnh vực khác, ví dụ như bức vẽ đầy cảm xúc này về những đứa bé tập tành làm họa sĩ.
The Picture Dealer, José Antolínez, 1670, Alte Pinakothek, Munich, Đức
1670: Antolínez chuyên vẽ chủ đề tôn giáo, nhưng đây mới là bức họa độc đáo nhất của ông: một bức vẽ bất thường, minh họa người nghệ sĩ nghèo cố gắng bán tác phẩm của mình (rất có thể là một dạng chân dung tự họa mang tính chế giễu)
The Immaculate Conception, Bartolomé Esteban Murillo, 1680, Louvre, Paris, Pháp
1680: Đây là chủ đề yêu thích mà Murillo đã minh họa nhiều lần. The Immaculate Conception (Đức mẹ Vô nhiễm Nguyên tội) là cái tên đặt cho đức tin trong Công giáo rằng Đức mẹ Đồng trinh - kể từ giây phút được hình thành trong người mẹ bà - không nhiễm nguyên tội nào, điều bất khả thi đối với nhân loại.
The Siege of Tournai, Adam Frans van der Meulen, 1684, Musées Royaux des Beaux-Arts, Brussels, Bỉ
1684: Van der Meulen sinh ra tại Brussels và dành phần lớn sự nghiệp tại Pháp, nơi ông làm việc với tư cách là họa sĩ quân sự cho vua Louis XIV. Các bức tranh của ông, như ví dụ trên đây, được dựa trên những bản vẽ thực hiện ngay tại chiến trường.
Charles II Adoring the Host, Claudio Coello, 1685–90, Escorial, Madrid, Tây Ban Nha
1685 - 90: Coello là họa sĩ tôn giáo hàng đầu tại Madrid trong khoảng thời gian ông làm việc, và đây là kiệt tác của ông - một bức tranh thờ khổng lồ đặt giữa khung kiến trúc tinh xảo. Trong tranh là 50 bức chân dung thành viên của triều đình.
KIỆT TÁC
The Surrender of Breda, Diego Velázquez ,1634–35
Prado, Madrid, Tây Ban Nha
Năm 1630, vua Philip IV khởi công xây dựng một cung điện mới tại khu vực mà bấy giờ là ngoại ô Madrid. Nó được thiết kế như một nơi để thư giãn, lánh xa khỏi trung tâm thành phố, được đặt tên là Buen Retino (dịch sát nghĩa là “nơi ẩn dật tuyệt vời”). Cung điện này được trang trí xa hoa với nhiều tác phẩm nghệ thuật. Trong đó, phòng tiếp khách chính, Hall of Kingdoms, treo 12 bức vẽ kích thước thật khắc họa những chiến thắng quân sự quan trọng dưới triều đại của vua Philip. Nhiều họa sĩ hàng đầu Tây Ban Nha lúc bấy giờ được tín nhiệm để thực hiện chúng, trong đó có Juan Bautista Mayno, Francisco de Zurbarán, và Diego Velazquez, người đã khẳng định tên tuổi bản thân vào năm 1634 -3 5 với kiệt tác này.
Nó khắc họa cảnh vị tướng Ambrogio Spinola nhận chìa khóa mở cổng thành phố Breda từ chỉ huy quân đội Hà Lan Justin van Nassau, sau khi quân đội Tây Ban Nah đã chiếm giữ thành phố kiên cố này vào năm 1625. Cả hai vị tướng đều đã qua đời vào thời điểm Velázquez thực hiện bức vẽ. Ông biết rất rõ về Spinola, nhưng ông chưa bao giờ gặp Justin, và cũng chưa bao giờ đặt chân đến Breda. Tuy ông phải dựa trên miêu tả từ các bản điêu khắc và lời kể để hình thành bố cục tranh, nhưng chúng lại vô cùng chân thật. Bối cảnh thường thấy trong các dạng tranh chiến trận như thế này là vị tướng bên thua cuộc sẽ quỳ gối trước kẻ đã chinh phục mình, nhưng Velázquez đã tạo sự kịch tính và nhân văn hơn bằng cách vẽ Justin chỉ đang cúi đầu trong lúc Spinola hào hiệp đặt tay lên vai ông ấy. Breda là một trong những chiến thắng quan trọng cuối cùng dưới triều đại vua Philip. Năm 1637, chỉ hai năm sau khi Velázquez hoàn thành bức vẽ, Hà Lan đã chiếm lại được thành phố.
Portrait of Pope Innocent X, Diego Veláquez, Galleria Doria Ramphili, Rome, Ý
Velázquez dành phần lớn cuộc đời làm việc tại Madrid với tư cách là họa sĩ thân cận của vua Philip IV. Ông chuyên vẽ tranh chân dung, nhưng cũng đã từng vẽ tranh chủ đề tôn giáo, thần thoại, lịch sử, và cả tranh vẽ đời sống thường nhật trong những ngày đầu của sự nghiệp. Ông từng ghé thăm Ý hai lần, trong đó vào lần thứ hai, ông có một trong những thành tựu huy hoàng nhất là vẽ chân dung cho Đức giáo hoàng Innocent X. Giáo hoàng nghĩ rằng nó đã mô tả nhân vật chân thật đến nỗi ông đã nhận xét “quá thực tế”
Bài viết dịch từ cuốn sách Art that Changed the World - Bài dịch PD. Vui lòng ghi rõ nguồn từ Fashionnet.vn khi muốn sao chép.
________________________________________________
G Studio
Art Design Center
vietnamcolor.vn - fashionnet.vn
Contact: 0903788646 - 0903975081
Email: Huongcolor.gstudio@gmail.com \
Office: Vietthi Company Limited (Vietnam Vision)
30, C18 Street, ward 12, Tan Binh District – Hochiminh City
Pro Creative Course I Khóa học Art, Design, Creativity, Writing, Storytelling: 6 buổi/tháng (cho mỗi môn học): Học viết, thiết kế, vẽ và tìm hiểu lịch sử nghệ thuật, phương pháp tư duy, xây dựng giá trị cốt lõi của sáng tạo. Những bài giảng tạo ra những gợn sóng xung động trong tâm trí và trái tim, giúp bạn tìm thấy những nguyên tắc dẫn lối tài năng của mình đến với cái đẹp và sự sáng tạo. Khoá học là một cuốn sách hướng dẫn hành trình trải nghiệm. Đây là lời mời hít thở bầu không khí nghệ thuật tại G Studio để bạn cảm nhận cái đẹp từ cuộc sống, thiên nhiên và tâm hồn.
HuongColor I người sáng lập G Studio là nhà thiết kế, họa sĩ và giám đốc sáng tạo, biên tập tạp chí thời trang. 1996 tốt nghiệp ngành Thiết kế tại Hanoi University of Industrial Fine Art (UIFA), sau đó Huongcolor trở thành giám đốc sáng tạo của tạp chí Đẹp. 2007 cô sáng lập công ty truyền thông, quảng cáo Vietnam Vision (Vietthi Company Limited). Năm 2010, cô được bổ nhiệm giám đốc nội dung của Elle Magazine. 2016 sáng lập Vietnam Designer Fashion Week (VDFW). 2021 thành lập G_studio tư vấn chiến lược và định hướng sáng tạo, hoạt động trong lĩnh vực truyền thông, thiết kế, nghệ thuật.