Lý giải sự say mê sắc đỏ tại châu Âu
Color_Study Bài viết này nghiên cứu cách màu đỏ được phát triển qua nhiều thế kỷ ở Châu Âu. Sau khi phân tích các kỹ thuật nhuộm khác nhau, nội dung tập trung phân tích sự phát triển giá trị của màu đỏ trong xã hội, thời trang, cùng những thay đổi xảy ra trên thị trường của nó.
Màu đỏ là một màu có lịch sử riêng biệt. Trong suốt nhiều thế kỷ, nó được ưa chuộng vì giá trị màu sắc hấp dẫn và ưu thế vượt trội trong tất cả các màu. Theo các nhà tâm lý học, màu đỏ là một màu sắc mang cảm xúc mãnh liệt, thúc đẩy quá trình trao đổi chất. Trong nhiều thiên niên kỷ, mặc trang phục đỏ thể hiện sự hợp pháp hóa địa vị xã hội, quyền lực chính trị, cấp bậc tôn giáo, nguồn gốc và bản sắc văn hóa. Từ thời cổ đại, loài người đã cố gắng tìm ra những loại thuốc nhuộm có thể tái tạo sắc thái mạnh mẽ của máu, lửa, hoa và hoàng hôn. Bằng chứng sớm nhất về chỉ nhuộm có từ thiên niên kỷ thứ sáu trước Công nguyên ở Thổ Nhĩ Kỳ, và nó có màu đỏ! Một ví dụ cổ xưa khác được đưa ra bởi những người Ai Cập, những người này đã bọc xác ướp của họ bằng vải lanh màu đỏ, một màu liên quan đến Osiris, người cai trị thế giới ngầm. Nhưng màu đỏ là thứ màu thần thánh, cũng là màu của nhiệt huyết, lòng dũng cảm và sự hy sinh. Trong trận chiến, người Sparta mặc áo đỏ, cũng như người Ba Tư, và sau đó là người La Mã. Vì màu đỏ sau này được liên kết với Mars, vị thần chiến tranh. Nó thể hiện ý chí và nghị lực; ý nghĩa bắt nguồn từ từ nguyên của từ ruber (màu đỏ) trong tiếng Latinh. Thói quen mặc màu đỏ cho các mục đích biểu tượng tiếp tục được duy trì trong nhiều thế kỷ, có những đặc điểm tương tự trên khắp châu Âu.
Thuốc nhuộm đỏ đặc biệt đắt tiền vì số lượng hạn chế, khiến vải đỏ càng được ưa chuộng hơn. Nhu cầu cao của vải đỏ có giá trị đã thúc đẩy ngành dệt may khám phá các công nghệ và nguyên liệu mới, đồng thời thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế quan trọng. Quá trình tìm kiếm một loại thuốc nhuộm màu đỏ đáp ứng được nhu cầu thường rất lâu và quanh co. Trong nhiều trường hợp, màu sắc sẽ mờ đi quá nhanh, hoặc quá phức tạp để sản xuất. Phải mất thời gian và kinh nghiệm để tìm ra màu đỏ phù hợp.
Hình 1 - Các hoạ sĩ vô danh. Mantle of Roger II of Sicily, 1133-34. Samite (gấm), lụa, vàng, ngọc trai, hồng ngọc, đồ khảm, ngọc bích, ngọc hồng lựu, thủy tinh và tráng men cloisonné; 345 x 146 cm. Vienna: Bảo tàng Kunsthistorisches. Nguồn: KHM
Quá trình nhuộm
Sau đây là những loại thuốc nhuộm đỏ được sử dụng nhiều nhất trước thế kỷ XVI:
Madder: một trong những thuốc nhuộm lâu đời nhất, có nguồn gốc từ Châu Âu, Bắc Phi và Cận Đông. Nó là một loại thảo mộc lâu năm, có phần rễ được sử dụng để nhuộm. Cây càng già thì hàm lượng chất tạo màu càng cao. Phần lõi của rễ được mài và chiết xuất thuốc nhuộm trong nước ấm. Madder kém ổn định hơn thuốc nhuộm động vật và chủ yếu được sử dụng cho len.
Gỗ Brazil: cho ra màu đỏ thẫm đậm, nhưng nhanh chóng phai màu và có nguy cơ làm vải cứng lại. Đây là một loại cây mọc ở Châu Á. Gỗ của nó được mài và phun nước; sau đó được để lên men và cuối cùng giải phóng chất lỏng màu đỏ cam. Loại màu nhuộm này khá rẻ và thường được sử dụng với các loại thuốc nhuộm đỏ khác để tăng cường màu sắc hoặc để nhuộm các lớp lót bên trong trang phục.
Kermes: được coi là loại thuốc nhuộm màu đỏ có chất lượng tốt nhất, nó tạo ra màu đỏ rực rỡ và mãnh liệt. Kermes có xuất xứ từ phương Đông, và có độ bền màu tốt. Thuốc nhuộm được lấy từ xác khô của kermes mang thai, loài côn trùng được tìm thấy trên gỗ sồi kermes. Thuật ngữ màu đỏ thẫm (crimson) có nguồn gốc chính xác từ côn trùng kermes. Côn trùng bị giết bằng hơi giấm và sau đó được làm khô. Loại màu nhuộm này rất đắt tiền và được sử dụng cho lụa, len và da. Nó còn được gọi là đỏ Venice.
Grain: cùng một loại côn trùng ký sinh nhưng được tìm thấy trên cây sồi Địa Trung Hải. Nó có chất lượng kém hơn, do đó nó có giá bằng một nửa kermes. Nó được gọi là grana, hay grain (hạt).
St. John’s blood (hay rệp sonl Ba Lan): có nguồn gốc từ loài côn trùng ký sinh có tên là rệp son sống trên rễ của một cây knawel lâu năm, từng được trồng ở Đông Âu. Nó có giá trị hơn so với rệp son Armenia vì côn trùng này chứa hàm lượng chất tạo màu cao hơn. Chúng được thu hoạch vào đầu mùa hè, nhổ cây, sau đó được trồng lại sau khi đã loại bỏ hết ký sinh trùng. Côn trùng được phun giấm hoặc nước lạnh và sau đó làm khô.
Đỏ Armenia (rệp son Armenia): có nguồn gốc từ côn trùng ký sinh sống trên rễ của một loại cây mọc ở Armenia. Hai loại rệp son này rất giống nhau về thành phần hóa học. Côn trùng được thu hoạch vào buổi sáng sớm bằng cách sử dụng quy trình tương tự như rệp son Ba Lan.
Hình 2 - Bartholomaeus Anglicus and Jean Corbechon. Dyers At Work (Thợ nhuộm đang làm việc), Manuscript Copy and Painted in Brussels, 1482. London: British Library, Royal Manuscript 15e.Iii, Folio 269 © The British Library Board / Leemage. Nguồn: The Paris Review
Hình 3 - Hoạ sĩ vô danh. Cây nopal được trồng ở Mỹ và sản xuất grana (thuốc nhuộm côn trùng). Các báo cáo về Lịch sử, Tổ chức và Tình trạng của Các Giáo phận Công giáo khác nhau ở Tân Tây Ban Nha, và Peru (1620-49), fol. 85 .. Chicago: Thư viện Newberry, Vault Ayer MS 1106 D8 Hộp 1 Thư mục 15. Nguồn: JSTOR
Sản xuất trang phục xa xỉ đại diện cho một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế và có sự tham gia của nhiều tầng lớp bao gồm thương gia, thợ nhuộm, thợ kéo sợi và thợ dệt
Những món đồ xa xỉ là biểu tượng của sự giàu có và quyền lực của tầng lớp thượng lưu. Ở các bang của Ý, các gia đình thuộc tầng lớp này sẽ chi trả một lượng lớn thu nhập hàng năm của họ cho hàng dệt may quý giá. Đó vừa là nghĩa vụ, vừa là niềm vui khi mặc chúng. Độ sáng của màu sắc được đánh giá cao, và những sắc màu rực rỡ như đỏ tươi và đỏ thẫm đặc biệt được coi trọng. Những tấm vải lộng lẫy đã trở thành tiền tệ quốc tế và được coi trọng đến mức chúng có thể là những món quà danh giá từ quốc chủ này sang quốc chủ khác nhân dịp thăm hỏi, kết hôn hoặc lễ kỷ niệm. Hàng dệt may thậm chí còn được đánh giá cao hơn nếu chúng có màu đỏ. Màu đỏ là một dấu hiệu thể hiện địa vị, điều này phổ biến đến mức ngay cả những người mù chữ (vào thời điểm đó chiếm đa số) cũng có thể hiểu thông điệp mạnh mẽ được truyền tải. Việc kinh doanh xoay quanh việc sản xuất vải đỏ sang trọng đã dẫn đến sự cạnh tranh quốc tế gay gắt, dẫn đến những bí mật kinh doanh bị các gia đình, phường hội và thị trấn ghen tị gìn giữ.
Trường hợp của Venice
Kể từ thời Trung cổ, các thành viên của giới thượng lưu châu Âu đã sẵn sàng trả giá cao ngất ngưởng để có được những tấm vải nhung quý giá, vải dạ, vải lụa, vải dệt, và thảm trang trí kiểu dáng đẹp. Hàng dệt may xa hoa đại diện cho một dấu hiệu quan trọng của uy quyền và sự sung túc vượt ra ngoài giá trị nội tại của chúng. Vào năm 800 Charlemagne mang đôi giày đỏ để đăng quang và chiếc áo choàng của Roger II xứ Sicily (Hình 1) được tạo ra vào thế kỷ XII cho các hoàng đế La Mã Thần thánh, được làm bằng vàng trên nền đỏ sặc sỡ . Vào thế kỷ thứ XIV, Richard II của Anh đã được đại diện trong một bức tranh quan trọng được bao phủ hoàn toàn bằng vải nhuộm kermes, bao gồm cả giày. Đến thế kỷ XV, ngành dệt may phát triển mạnh ở Châu Âu tại các trung tâm như Florence, Lucca, Venice, Genoa, Bruges và Lyons.
Venice là một trong số những nhà sản xuất thuốc nhuộm đỏ quan trọng nhất, đó là một nước cộng hòa giàu có đã kiếm được nhiều tiền nhờ buôn bán, bao gồm cả loại thuốc kermes quý giá.
“Những màu đỏ đậm nhất và rực rỡ nhất, được gọi chung trên toàn châu Âu là "màu đỏ tươi của Venice ’, dấy lên sự ghen tị cho tất cả những ai nhìn thấy chúng”.
Thành phố được biết đến với việc sản xuất những loại hàng dệt lộng lẫy nhất và sản xuất nhiều loại màu đỏ, trong số đó có màu đỏ tươi nổi tiếng của Venice - tên gọi chung cho tất cả các màu đỏ sang trọng - có công thức bí truyền được nhà nước bảo vệ nghiêm ngặt.
Tất cả hàng dệt may bán ở Venice phải được nhuộm tại địa phương và để ngăn chặn những điều bất thường, chính phủ đã quyết định rằng công việc của những người thợ nhuộm phải được quy định rõ ràng. Năm 1243 những người thợ nhuộm được hợp nhất thành một hội; họ phải đảm bảo rằng họ sẽ trả lại hàng dệt theo kích thước ban đầu và màu sắc được yêu cầu; ví dụ, nếu màu đỏ tươi được đặt, họ không thể trộn kermes với madder, một màu đỏ kém giá trị hơn. Hiệu suất của thợ nhuộm phản ánh danh tiếng của thành phố, và thành phố đã cảnh giác về việc đáp ứng các khoản hoa hồng quốc tế. Vào thế kỷ thứ mười sáu, Vua Françis I của Pháp đã đặt hàng hàng trăm miếng vải lụa cho tủ quần áo của mình, và người Anh từng gửi vải của họ đi nhuộm ở Venice và Florence.
Hình 4 - Titian (người Ý, 1490-1576). Madonna of the Pesaro family, 1519-26. Sơn dầu trên vải; 40 x 22,8 cm (16 x 9 in). Venice: Santa Maria Gloriosa dei Frari. Nguồn: Wikimedia
Hình 5 - Jacopo Carucci (Pontormo) (người Ý, 1494-1557). Portrait of Cosimo de 'Medici the Elder, 1519-1520. Sơn dầu trên ván (panel); 86 x 55 cm (33,8 x 21,5 in). Florence: The Uffizi, 1890: 3574. Nguồn: Google Arts & Culture
Hình 6 - Nhà sản xuất vô danh (Florentine). Quần áo an táng của Don Garzia de 'Medici: Áo chẽn với quần chẽn, áo khoác ngoài, 1562. Satin đỏ, dây vàng, nhung, vải gấm hoa. Florence: Cung điện Pitti, Invv. GGC nn. 8723, 8724. Nguồn: Palazzo Pitti
Để tránh gian lận và để duy trì uy tín của màu đỏ nổi tiếng của Venice, chính phủ quy định rằng các loại vải được sử dụng làm mẫu của thương gia phải được mã hóa màu để chỉ rõ loại thuốc nhuộm được sử dụng (vải được nhuộm bằng kermes được đánh dấu bằng màu xanh lá cây với sợi vàng , nếu dùng cây thiên thảo (madder) sẽ được đánh dấu màu vàng, trong khi gỗ Brazil rẻ hơn được đánh dấu bằng một sợi màu xanh đậm). Những quy định như thế này phải được kiểm tra liên tục đối với hoạt động của các thương gia và thợ nhuộm.
Trong suốt thời kỳ Phục hưng, các nhà cai trị châu Âu và các đại diện của họ tiếp tục coi việc mặc màu đỏ như một sự khẳng định quan trọng về quyền lực và đặc quyền của họ (Hình 5, 6). Ví dụ, vào năm 1441, Francesco Sforza, công tước của Milan, đã mặc một chiếc áo đôi màu đỏ trong đám cưới của mình với Bianca Maria.. Các đại sứ Florentine được cử đến đều mặc áo đỏ thẫm. Federico da Montefeltro, công tước của Urbino, trong bức chân dung nổi tiếng của ông bởi Piero della Francesca (Hình 7), tất cả đều mặc đồ màu đỏ tươi. Anh một chiếc mũ theo kiểu đặc biệt của Ý, thường được các nhà cầm quyền và lãnh đạo địa phương sử dụng.
Nhà thờ cũng không miễn nhiễm với sự quyến rũ của màu đỏ. Màu đỏ không chỉ là màu của quyền lực, mà nó còn là màu của máu và sự khổ nạn của Chúa Kitô. Năm 1464, Giáo hoàng Paul II đã ra sắc lệnh rằng màu đỏ thẫm nên được sử dụng thay vì màu tím truyền thống. Kể từ đó, các cấp cao của nhà thờ bắt đầu thực hiện quyền lực của họ một cách trực quan bằng cách mặc những màu đỏ lộng lẫy nhất (Hình 8, 10). Năm 1468, khi Charles the Bold, công tước của Burgundy vào Bruges (thuộc vương quốc Bỉ), ông được hộ tống bởi một nhóm thương nhân nước ngoài, nơi “lần đầu tiên cưỡi ngựa của người Venice, mặc trang phục nhung đỏ”.
Venice được hưởng đặc quyền tiếp cận các loại thuốc nhuộm quý giá nhờ vào giao thương ở Địa Trung Hải và phương Đông; tuy nhiên, vị trí này đã bị thách thức bởi sự xuất hiện của rệp son từ phương Tây. Trong một thời gian, thành phố đã cố gắng chống lại kẻ mới đến, từ chối việc sử dụng rệp son để ủng hộ kermes (sâu kemet), nhưng cuối cùng nó đã trao cơ hội cho loài côn trùng nhỏ bé này và màu đỏ ngoạn mục, tươi sáng, mãnh liệt, bền bỉ và đáng mơ ước của nó.
Hình 7 - Piero della Francesca (người Ý, 1416/17 - 1492). Công tước và Nữ công tước xứ Urbino Federico da Montefeltro và Battista Sforza (bức tranh khi đi vào chi tiết), 1473-75. Dầu trên gỗ. Florence: The Uffizi, số 1890. 1615, 3342. Nguồn: The Uffizi
Hình 8 - Titian (người Ý, 1490-1576). Cardinal Pietro Bembo, 1539/1540. Sơn dầu trên vải; 94,5 x 76,5 cm (37 3/16 x 30 1/8 inch). Washington: Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia, 1952. 28. Bộ sưu tập Samuel H. Kress. Nguồn: NGA
Hình 9 - Agnolo Bronzino (người Ý, 1503 - 1572). Eleonora di Toledo, năm 1560. Sơn dầu trên ván (pannel); 86,4 x 65,1 cm (34 x 25 5/8 inch). Washington, DC: Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia, 1961.9.7. Bộ sưu tập Samuel H. Kress. Nguồn: Phòng trưng bày nghệ thuật quốc gia
Cochineal (rệp son)
Khi rệp son từ Mexico du nhập vào châu Âu vào đầu thế kỷ XVI, nó đã sớm thay thế tất cả các loại thuốc nhuộm đỏ khác. Đây là một loại thuốc nhuộm có sức mạnh đáng kinh ngạc, đậm hơn nhiều, tươi sáng, sống động và bền hơn bất kỳ màu đỏ nào khác. Một ounce (gần 80ml) thuốc nhuộm từ cochineal có thể tạo ra màu nhuộm gấp ba mươi lần màu đỏ của Armenia, tạo ra những màu đỏ tươi và đỏ thẫm đẹp nhất và được thèm muốn nhất.
Vào năm 1519, những người chinh phục Tây Ban Nha nhận thấy rằng những người dân bản địa Mexico đang bán ở chợ một túi thuốc nhuộm màu đỏ tuyệt đẹp được gọi là grana cochinilla, hoặc cochineal (rệp son). Vật liệu quý giá này cũng được sử dụng làm con bài mặc cả hoặc cống nạp cho những người cai trị. Cochineal khô bền, dễ vận chuyển, cộng thêm việc nhu cầu về thuốc nhuộm đỏ rất cao ở châu Âu. Hiệu ứng giật gân được tạo ra bởi cochineal trong thế giới cũ đã khiến nó trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu có lợi nhất từ châu Mỹ, hỗ trợ nền kinh tế Tây Ban Nha trong nhiều thế kỷ.
Cochineal là gì? Nó là một loài côn trùng có vảy thuộc cùng một họ giáp ranh Armenia và Ba Lan. Nó là một loại ký sinh trùng có môi trường sống là cây xương rồng thường được gọi là nopal hoặc lê gai. Nó hút nước của nopal bằng vòi của nó. Con cái dành cả đời để ăn, và để phòng vệ chống lại một số loài săn mồi, nó tạo ra một loại axit carminic. Chính axit này quyết định màu nhuộm đỏ tươi, đậm được đánh giá cao (Hình 3).
Lãnh thổ của Oaxaca là vùng sản xuất cochineal chính, người bản địa đã trồng nó trong khoảng hai thiên niên kỷ. Việc nhân giống và thu hoạch đòi hỏi thời gian, sự kiên nhẫn, kỹ năng, và chỉ có thể thực hiện được ở những mảnh đất nhỏ do người dân địa phương hoạt động vì lợi ích cá nhân. Một pound (khoảng nửa cân) cochineal được làm từ 70.000 con rệp son.
Ở châu Âu và ở phương Đông, cochineal trở thành một trong những mặt hàng được săn lùng nhiều nhất, một mặt hàng thực sự làm thay đổi chức năng của thương mại toàn cầu. Giá của nó đã tạo ra những suy đoán quốc tế giữa các chủ ngân hàng, thương gia và các nhà ngoại giao cấp cao, đến mức vào năm 1585, một tập đoàn chuyên buôn bán cochineal đã được giới thiệu và có ảnh hưởng khắp châu Âu.
“Cochineal là thứ gần nhất mà châu Âu từng thấy về một màu đỏ hoàn hảo.”
Trong hơn hai thế kỷ, bản chất của cochineal là một bí ẩn đối với các thương gia và thợ nhuộm - họ không có manh mối nào về thành phần của nó. Cuối cùng khi nó được tiết lộ, các doanh nhân từ khắp châu Âu đã cố gắng gây giống loài côn trùng đó nhưng địa hình và điều kiện thời tiết luôn gây ra vấn đề đối với loài cochineal mỏng manh.
Cochineal cũng được sử dụng làm chất màu bởi các nghệ sĩ như Tintoretto, Rubens, Van Dyck (Hình 10-11), Rembrandt, Velasquez, và sau đó là Turner và Van Gogh. Ngày nay, nó được sử dụng trong mỹ phẩm cho son môi.
Hình 10 - Anthony van Dyck (Flemish, 1599 - 1641). Chân dung của Agostino Pallavicini, ca. 1621. Sơn dầu trên vải; 216,2 × 141 cm (85 1/8 × 55 1/2 inch). Los Angeles: Bảo tàng J. Paul Getty, 68.PA.2. Nguồn: Bảo tàng Paul Getty
Hình 11 - Anthony van Dyck (Flemish, 1599 - 1641). Chân dung của Paolina Adorno-Brignole-Sale, 1627. Sơn dầu trên vải; 286 x 151 cm (112,5 x 59,4 in). Genoa: Bảo tàng Strada Nuova - Palazzo Rosso, inv. PR 51. Nguồn: Wikimedia
Hình 12 - Jean-Auguste-Dominique Ingres (người Pháp, 1780-1867). Napoléon trên ngai vàng, 1806. Dầu trên vải; 260 x 163 cm (102,3 x 64,1 in). Paris: Bảo tàng Quân đội, 4; EA 89/1. Nguồn: Tổ chức Napoléan
Những màu đỏ sau Cochineal
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, thị hiếu thời trang đã thay đổi. Hoàng đế Charles V và tầng lớp quý tộc Tây Ban Nha bắt đầu chuộng màu đen hơn màu đỏ. Thị hiếu của người Tây Ban Nha đối với màu đen trở nên phổ biến và Tây Ban Nha nhanh chóng áp đặt mốt mới trên toàn châu Âu. Màu đỏ tiếp tục tồn tại, như được ghi nhận trong các tài liệu và các bức chân dung; tuy nhiên nó được sử dụng chủ yếu cho màn, rèm và vải bọc như được thể hiện trong các bức tranh, nơi màu đỏ tạo ra sự nổi bật cho các hình vẽ và sự sống động cho bố cục (Hình 11).
Đến năm 1625, người Hà Lan là người đi đầu trong việc sản xuất thuốc nhuộm cochineal, chấp nhận các khoản hoa hồng béo bở nhận được từ Anh, nơi tuyển dụng 50.000 công nhân Hà Lan. Vào giữa thế kỷ XVII, nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Oliver Cromwell đã thiết kế lại áo khoác bộ binh của quân đội Anh. Đồng phục len màu đỏ cổ điển thanh lịch là đặc trưng của quân đội Anh từ thời điểm đó cho đến cuối thế kỷ 19.
Vào những năm 1670-80, triều đình của Louis XIV tại Versailles đã phổ biến phong cách đeo talons rouge (giày cao gót màu đỏ) cho tất cả các triều đình châu Âu. Vào thế kỷ thứ XVIII, việc sử dụng thuốc nhuộm màu đỏ chủ yếu hướng đến vải bọc và thảm trang trí. Một trong những ví dụ điển hình nhất là Phòng Thảm (Tapestry Room) từ Croome Court. Được sản xuất bởi nhà máy Royal Gobelins của Pháp, đây là một căn phòng được treo những bộ thảm trang trí màu đỏ nhuộm màu thời trang, được trang bị ghế sofa và ghế bành được bọc bằng vải phù hợp.
Hình 13 - Căn phòng được thiết kế bởi Robert Adam, Thảm trang trí và đồ nội thất được sản xuất bởi Xưởng sản xuất Nationale des Gobelins (tại Pháp, thành lập năm 1662) (tại Anh, 1728-1792). Phòng thảm từ Croome Court, 1763-71. New York: Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, 58,75.1-.22. Quà tặng của Quỹ Samuel H. Kress. Nguồn: Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan
Trong thời kỳ của đế chế Napoléon, vào đầu thế kỷ XIX, màu đỏ tiếp tục được sử dụng để thể hiện quyền lực (Hình 12), nhưng nó gần như biến mất vào cuối thế kỷ này. Xã hội trở nên tỉnh táo hơn, được thấm nhuần bởi các tư tưởng dân chủ và các giá trị tư sản. Màu đỏ thường liên quan đến tầng lớp quý tộc và quá độ tình dục, mang những ý nghĩa khá tiêu cực.
Vào những năm 1870, một thế hệ màu đỏ tổng hợp mới đã xuất hiện. Thuốc nhuộm đỏ đầu tiên được gọi là alizarin, thuốc nhuộm tổng hợp tốt hơn đã được phát triển ngay sau đó. Những điều này là sự đại diện cuối cùng cho thị trường cochineal từng phát triển mạnh mẽ.
Hình 14 - Mariano Fortuny (người Tây Ban Nha, 1871-1949). Váy của Delphos, sau năm 1909. Lụa taffeta xếp ly; 146 cm (57,4 in). Venice: Pháo đài Collezioni di Museo, inv. C016. Nguồn: pinterest
Vào cuối thế kỷ này, William Morris với phong trào Thủ công và Nghệ thuật (Arts and Crafts) của mình, đã thúc đẩy sự quay trở lại của nghề thủ công truyền thống, từ chối công nghiệp hóa và hồi sinh các loại thuốc nhuộm tự nhiên như madder và cochineal. Vào đầu thế kỷ XX, lấy cảm hứng từ phong trào này, nhà thiết kế thời trang và dệt may người Tây Ban Nha-Ý, Mariano Fortuny, đã sử dụng thuốc nhuộm tự nhiên cho trang phục của mình, và với tác phẩm này, cochineal đã có một bước đi mới trong thế giới thời trang (Hình 14).
Hình 15 - Valentino Garavani (người Ý, sinh năm 1932). Cảnh trong phim tài liệu "Valentino: The Last Emperor", 2008. Nguồn: Screen Daily
Ngày nay, màu đỏ không mang tính biểu tượng như ngày xưa, nhưng nó vẫn không phải là màu dành cho tất cả mọi người. Đó là một màu khó mặc; màu đỏ đòi hỏi sự tự tin nhất định và cho đến ngày nay nó vẫn mang hàm ý của sức mạnh và quyền lực.
Nhà thiết kế Valentino đã biến màu đỏ thành thương hiệu của mình: màu đỏ mang tính biểu tượng, thanh lịch và vĩ đại (Hình 15). Màu đỏ, với sắc thái sang trọng, đã được thời gian thử nghiệm và vẫn tồn tại là một trong những màu sắc mạnh mẽ nhất trong thời đại ngày nay.
Nguồn: https://fashionhistory.fitnyc.edu/the-red-craze/
Bài dịch: Nhi Nguyễn. Bản quyền thuộc về Fashionnet, vui lòng ghi rõ nguồn khi muốn sao chép.
________________________________________________
Art Design Center
vietnamcolor.vn - fashionnet.vn